Tập luyện mỗi ngày, ít thì 6 giờ, nhiều thì 8 tiếng, chia làm 3 pha: sáng - trưa – chiều tối. Không phải động tác quá khó hay nhiều chiêu thức, chỉ một tay quyền, một động tác tập nhiều lần…Cứ thế, cứ thế, ngày này qua ngày nọ, tháng này qua tháng nọ… rồi thời gian mãi trôi đến khi nhận ra mình đã lớn.
Sau nhiều năm lăn lộn trong với cuộc sống bon chen nghiệt ngã, mình nhận ra rằng hồi còn được luyện tập cùng các huynh đệ dưới sự chỉ bảo tận tình của Sư Phụ là quãng thời gian đẹp nhất của đời mình cho tới thời điểm này. Vì một trong những điều mà đời người không được đánh mất đó là sự thảnh thơi - đúng vậy, thời bấy giờ chỉ tập luyện cực khổ một chút, đói khát một chút... nhưng lòng thật thảnh thơi, thanh thản, vô tư...
Những bài quyền, những bài học tâm pháp, những đường nét thân thủ như lần lượt hiện ra trong không gian tỉnh mịch khi chỉ còn lại mình độc thoại với tâm linh, dù rằng có ngắc quãng, rời rạc.
Sư Phụ từng dạy:
Học nguyên tắc rồi giải trừ nguyên tắc, nghĩa là qua sông rồi thì nên
để lại thuyền mới đi tiếp được, nếu cứ câu nệ vào phương pháp tức là quá quan
tâm đến hình thức mà không hướng đến nội dung thì Tâm pháp bị vướng bận, năng
lực bị giam hãm và không được giải phóng thì cho dù có tập luyện quyền thuật
lâu ngày cũng không có kết quả gì.
Như vậy người mới học quyền thuật rất cần các hình thái quyền pháp căn
bản, đến khi tinh luyện rồi thì thiên biến vạn hóa, từ chỗ có chiêu số đi đến
chỗ không có chiêu số nghĩa là Vô ảnh quyền, vô ảnh cước, mọi cử động bất kỳ
của thân thể cũng có thể trở thành chiêu thức phòng thủ, tấn công hay phản công
đối phương hữu hiệu.
Các thế đánh đều xuất phát từ trung tuyến nên rút ngắn khoảng cách và
thời gian. Tay quyền không theo một trình tự
nhất định nào mà tùy theo khả năng ứng biến theo tình thế của người luyện tập
và trong khi chiến đấu ngoài đời thật sự. Có thể nói cách khác, không phụ thuộc
về hình cũng không dạy các võ sinh phải đỡ đòn tấn công của đối phương khi đánh
ra thế này hay thế kia mà cần phát huy khả năng ứng biến linh động sáng tạo của
các môn sinh khi ứng dụng trực chiến gọi là Tâm ứng thủ hay Tâm ý quyền.
Một số hình quyền:
Ngũ hình quyền:
Long : Thổ - Tỳ -
thần
Hổ: Kim – Phế - lực (xương cốt)
Báo: Mộc - Can - kình (gân)
Xà: Thuỷ - Thận - khí
Hạc: Hoả - Tâm - tinh
Dĩ công vi thủ - dĩ thủ vi tiêu
Lấy công để thủ, lấy thủ để hoà giải
Nói về ân dương trong võ học
Âm - Dương, Cương - Nhu, Hư -
Thực, Động - Tĩnh
Nhu quyền: Lấy lực ly tâm (vòng tròn) để hoá giải lực hướng tâm
(lực thẳng)
Triệt đầu quyền: chặn ngay lực đối phương từ gốc
Tiếp vĩ quyền: đợi lực đối phương ra hết rồi mới ra chiêu tiếp lực
đối phương
Tay thủ: (Kiều thủ)
- Khuyên thủ (Xoay tròn)
- Than thủ (tản ra)
- Bàng thủ (Tạt ra)
- Cổn thủ (ém)
- Tán thủ
- Phách thủ
- Phục thủ (nằm lên)
- Liêu thủ (nâng lên)
- Xuyên thủ (xiên luồn )
- Khấu thủ (giằng chặt)
- Phao thủ (quăng ném)
- Khiêu thủ (dẫn dụ)
- ....
Tay quyền có:
- Tam tinh chuỳ (Đấm tam tinh) chia là 3 lực trong một thế đánh
- Nhật tự xung quyền
- Quải quyền
- Thôi sơn quyền
- Khắc thủ quyền
- Địa lôi quyền
- Pháo quyền
- Cương quyền
- Toàn quyền
- Xà quyền
- Báo quyền
- Long quyền
- Hổ quyền
- Hạc quyền
- Hầu quyền
- Trúc diệp chưởng
- Song long chưởng
- Lôi oanh chưởng
- Âm dương pháp chưởng
- Thiên vương pháp chưởng
- ....
Bài viết làm động lực để tôi tập luyện tốt hơn
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóa