Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012

Những con đường mang tên phụ nữ tại TPHCM

Học xong 12, tôi vào Sài Gòn những với những bước chân bỡ ngỡ. Sau 18 năm lăn lộn, từ một thằng gác cổng, dọn vệ sinh, giữ xe...rồi một năm sau mới thi đậu vào đại học, tôi phải lùng sục khắp xó xỉnh Sài Thành để tìm việc "lấy ngắn nuôi dài", bảo vệ, trực đêm, phòng tối, in lụa, bồi bàn.... 
Cuộc sống thật vất vả nhưng niềm vui lúc nào cũng đầy ắp niềm vui vì tôi tìm nụ cười qua công việc và học tập. Rồi đến một ngày tôi cũng trở thành nhân viên của của một tổ chức truyền thông, cửa ngỏ để tôi trở thành một nhà báo sau này....
Làm báo- tôi được đi đây đó nhiều hơn, nhất là trong khu vực TPHCM và tôi hiểu ra rằng những con đường mình đã đi qua thật ý nghĩa.
TPHCM có 24 quận huyện, 254 phường xã...và có đến gần 1.000 con đường mang tên những con người ưu tú là các nhà cách mạng, chiến sĩ, nhà giáo, nhà hảo tâm....nhưng đa số là tên của phái nam, chỉ có một số ít là của phái nữ. Vậy các bạn có thể đếm được bao nhiêu con đường mang tên phụ nữ và liên quan đến phụ nữ?
Một buổi tối đẹp trời ngồi suy nghĩ nhớ về những con đường mình đã qua, tôi chợt nghĩ ra mình phải lên danh sách những con đường mang tên phụ nữ hay viết một điều gì đó về những con đường này....
1

1.         Nguyễn Thị Minh Khai
2.         Võ Thị Sáu
3.         Hai Bà Trưng
4.         Nguyễn Thị Diệu
5.         Nguyễn Thị Nghĩa
6.         Thái Thị Nhạn
7.         Bà Hạt
8.         Bà Hom
9.         Bà Lài
10.       Nhất Chi Mai
11.       Thạch Thị Thanh
12.       Sương Nguyệt Ánh
13.       Lê Thị Riêng
14.       Trịnh Thị Miếng
15.       Lê Thị Hà
16.       Lê Thị Hồng Gấm
17.       Bùi Thị Xuân
18.       Âu Cơ
19.       Nguyễn Thị Nhỏ
20.       Nguyễn Thị Thập
21.       Trần Thị Nghỉ
22.       Trần Thị Ngần
23.       Lê Thị Bạch Cát
24.       Nữ Dân Công
25.       Bà HUyện Thanh Quan
26.       Bà Lê Chân
27.       Hồ Xuân Hương
28.       Hồ Thị Kỷ
29.       Đặng Thị Nhu
30.       Đặng Thị Rành
31.       Bà Triệu
32.       Mạc Thị Bưởi
33.       Huyền Trân Công Chúa
34.       Mai Thị Lựu
35.       Út Tịch
36.       Ni sư Huỳnh Liên
37.       Nguyễn Thanh tuyền (*)
38.       Đỗ Thị Tâm
39.       Bà Ky
40.       Cô Bắc
41.       Cô Giang
42.       Ngô Thị Thu Minh (p.2,TB)
43.       Nguyễn Thị Huỳnh
44.       Đoàn Thị Điểm
45.       Lê thị Hoa
46.       Lê Thị Hồng
47.       Lê Thị Siêng
48.       Phạm Thị Hối
49.       Phạm Thị Hồ
50.       Phạm Thị Hôi
51.      .....
Có thể chưa đầy đủ, các bạn hãy giúp tôi sưu tập thêm những con đường khác nhé
Qua danh sách này có thể các bạn có thêm một trò chơi mới đấy đó là phân ra thành hai hoặc ba nhóm để nêu lên đường mang tên phụ nữ, nhóm nào nêu tên đường nhiều nhất là nhóm đó thắng cuộc.
Chúc các bạn vui vẽ!
Tìm hiểu thêm tại:
http://huuthangkungfu.blogspot.com/2012/11/nhung-con-uong-mang-ten-nha-giao.html


Chủ Nhật, 4 tháng 11, 2012

Võ công Thiếu Lâm có 3 sự phân chia lớn


Võ học Thiếu Lâm vô bờ bến và một người học võ Thiếu Lâm chí ít phải trang bị kiến thức để biết mình đang tập pháp môn gì.


Tung Sơn Thiếu Lâm Hà Nam
Là nơi mà Đạt Ma Bồ Đề đã đặt chân đến khai sinh ra dòng Phật giáo Thiền Tông Trung Hoa. Võ công Hà Nam Tung Sơn Thiếu Lâm mới chính là võ công chính thống khởi nguyên mà được gọi tắt là võ Thiếu Lâm.
Võ Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam không giới hạn trong ngạn ngữ Nam quyền Bắc Thoái vì đều sử dụng chân và tay đều nhau, đặc điểm của quyền pháp là bài quyền chỉ đánh trong phạm vi diện tích một con trâu nằm là đủ (Quyền Đả Ngọa Ngưu Chi Địa)




Bắc Thiếu Lâm Hà Bắc
Có thể nói rằng thành phố Thương Châu thuộc tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc) là cái nôi võ thuật nảy sinh nhiều cao thủ dị biệt ở miền Bắc Trung Hoa nhưng lại không nổi danh. 
Đặc trưng kỹ pháp của Bắc Thiếu Lâm là các môn Trường quyền dùng đòn chân nhiều (Thoái pháp, Cước pháp) với yếu quyết là Trường Nhất Thốn, Cường Nhất Thốn (dài thêm một tấc, mạnh thêm một tấc) nghĩa là: công – thủ từ xa do vậy rất trọng sự di chuyển và tốc độ, chạy nhanh, nhảy cao, đá bén, thân thủ lanh lẹ biến ảo vô cùng.

tb_loivuthanphap2

Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến
Tại tỉnh Phúc Kiến có đến 3 ngôi chùa Nam Thiếu Lâm tại 3 thành phố khác nhau: Toàn Châu , Phủ Điền , và Phúc Thanh thuộc thành phố Phúc Châu.
Võ thuật Nam Thiếu Lâm ở tỉnh Phúc Kiến vùng Mân Nam xuất hiện rất sớm vào khoảng thời gian từ gần cuối triều nhà Đường (618–690 Công nguyên) và nhà Tống (960–1279) là đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ngang thời với võ thuật Thiếu Lâm.
Kỹ thuật chủ yếu trong Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến là kỹ pháp Kiều Thủ - đoạn từ cùi chỏ cánh tay đến cổ tay. Các bộ quyền của Nam Thiếu Lâm (hay Nam Quyền) thường dùng 2 thế tấn căn bản là Trung Bình Tấn, và thế tấn thứ hai là Nhị Tự Kiềm Dương Mã.

DSC_0325

Do sử dụng chủ yếu là tay khi công thủ nên nguyên tắc chiến đấu pháp được gói gọn trong câu quyết nổi tiếng của Hồng Gia quyền Xuyên Kiều Tranh Mã Xích Thân Trửu nghĩa là chủ về lối đánh trụ bộ, cận chiến và nhập nội nhiều hơn, Xuyên Kiều nghĩa là xuyên tay và len tay vượt trên tay đối phương, Tranh Mã nghĩa là phải dùng chân nêm chặt bộ vị (thế tấn) của đối phương, Xích Thân Trửu nghĩa là Thân và Cùi Chỏ phải luôn áp sát đối phương.
Đặc điểm của Nam Quyền là thường hay giậm đạp gót chân xuống đất rồi thét lớn khi phóng quyền xuất kình, thế quyền tuôn ra ào ạt như thác lũ gọi là Dĩ Thanh Trợ Lực nghĩa là hét lớn để tạo thêm sức mạnh và khí thế.

Tìm hiểu thêm tại:
 http://huuthangkungfu.blogspot.com/2012/11/giac-ngo-10-nam-kungfu-nam-huynh-ao.html

Những con đường mang tên nhà giáo

Việc những đường phố mang tên nhà giáo xuất hiện ngày càng nhiều những năm vừa qua đã làm rạng rỡ hơn bao giờ hết truyền thống của nhà giáo Việt Nam trong thời đại mới. Sắp đến ngày 20-11, ngày truyền thống Nhà Giáo Việt Nam, việc xuất bản những con đường mang tên các nhà giáo ưu tú tại TPHCM, như một tấm lòng nhớ đến công ơn giảng dạy của các thầy cô, tôn sư cũng như của các bậc thầy trong nhiều lĩnh vực.
Các bạn mỗi ngày đều đi qua rất nhiều con đường để đến trường, đến lớp, đến công sở, chỗ làm và trở về nhà, thế cho mình hỏi nhé:
 - Có bạn nào biết ở TPHCM có bao nhiêu con đường mang tên các nhà giáo?
-  Bạn có biết TPHCM có bao nhiêu đường mang tên Nguyễn Bỉnh Khiêm?
-  Đường Võ Trường Toản có mấy đường và nằm ở quận nào của Sài Gòn?
-  Gia đình nhà giáo nào có nhiều tên đường nhất?
....
Thật ra có những thứ xung quanh chúng ta rất gần gũi và gắn liền mỗi ngày, nhưng chúng ta dần không để ý đến như hơi thở và nhịp đập con tim chúng ta đấy thôi.

Nhất Chi Mai (1934 - 1967), nhà giáo liệt sĩ. Tên thật: Phan Thị Mai, sinh tại xã Thái Hiệp Thành (Tây Ninh). Sau khi tốt nghiệp trường quốc gia sư phạm, cô làm giáo viên tiểu học ở trường Tân Định (Sài Gòn). Cô còn học Đại học văn khoa và cao đẳng Phật học Vạn Hạnh. Cô đã tham gia nhóm "Thanh niên phụng sự xã hội" (một hội đoàn thanh niên ở Sài Gòn lúc bấy giờ) - là người chị của hàng trăm trẻ em mồ côi, là người bạn của bao người nghèo tại các xóm lao động ngay nội ô Sài Gòn. Trước sự bạo tàn của quân xâm lược cô quyết lấy thân mình làm cây đuốc rực lửa, thúc đẩy đấu tranh chống Mỹ, Ngụy.
Ngày 8 tháng 4 Đinh Mùi (tức 16-5-1967), cô đã ngồi tự thiêu tại chùa Từ Nghiêm (Sài Gòn) để lại thư tuyệt mệnh và nhiều di bút.
Đường Nhất Chi Mai nằm ở quận Tân Bình (TPHCM).

Nguyên Thị Diệu (1926 - 1955), nhà giáo liệt sĩ. Quê huyên Đức Phổ (Quảng Ngãi). Nguyễn Thị Diệu từng học ở Sài Gòn - đậu tú tài - sau Cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp quay trở lại, bà tham gia kháng chiến ngay. Được bầu vào ban chấp hành Hội Phụ nữ cứu quốc Nam bộ.
Tuy xuất thân từ gia đình quan lại triều đình Huế cũ nhưng bà sống giản dị, hòa mình với quần chúng. Năm 1950 bà xuống miền Tây hoạt động, học bơi xuồng để một mình đi công tác tới các vùng nông thôn hẻo lánh. Năm 1952 bà phụ trách công tác thuế nông nghiệp. Sau hiệp định Genève, bà về Sài Gòn dạy học tại trường tư thục Đức Trí để hoạt động bí mật. Bọn tay sai Ngô Đình Diệm phát hiện; bà bị bắt ngày 6-7-1955 giữa lúc đang đứng trên bục giảng. Chúng tra tấn bà đến chết, lúc đó bà đang mang thai.
TPHCM có đường Nguyễn Thị Diệu (được đặt tên từ 1985).

Nguyễn Văn Dưỡng (1923 - 1962) là nhà giáo liệt sĩ. Quê ông, nay thuộc quân Phú Nhuận - TPHCM. Ông du học ở Pháp từ trước từ chiến thế giới thứ 2, đậu tiến sĩ luật hoc. Về nước làm giáo sư Đại học Luật - Sài Gòn. Sau 1954, ông ở trong ban lãnh đạo phong trào hòa bình Sài Gòn - Gia Định, cùng luật sư Nguyễn Hữu Thọ đấu tranh đòi chính quyền Sài Gòn thi hành hiệp định Genève.
Năm 1955, ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam: ông hy sinh ngày 21 tháng 7 năm 1962 tại quận Tân Bình (TPHCM) có đường Nguyễn Văn Dưỡng.

Lê Văn Chí (1907 - 1993) quê Đồng Tháp. Tốt nghiệp cao đẳng sư phạm Đông Dương, ông về dạy học tại Mỹ Tho rồi chuyển lên Sài Gòn dạy trường Pétrus Ký. Nam Bộ kháng chiến, ông ra vùng tự do, tiếp tục dạy học và làm hiệu trưởng các trường trung học Nguyễn Văn Tố, Thái Văn Lung... Trong chống Mỹ cứu nước, ông làm Thứ trưởng Bộ Giáo dục, Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam; uỷ viên Tiểu ban giáo dục thuộc Ban tuyên huấn Trung ương cục miền Nam.
Đường Lê Văn Chí nằm ở quận Thủ Đức (TPHCM)

Hoàng Xuân Nhị (1914 - 1990) quê Đức Thọ (Hà Tĩnh). Thuở nhỏ, học ở Vinh (Nghệ An), Hà Nội. 1935: du học tại Pháp. Tốt nghiệp cử nhân triết học năm 1937. Năm 1946 về nước tham gia kháng chiến chống Pháp - từng làm giám đốc Sở Giáo dục Nam bộ - Viện trưởng Viên Văn hóa Nam Bộ. Sau tháng 7/1954, ông tập kết ra Bắc làm giáo sư đại học, chủ nhiệm khoa ngữ văn trường đại học Tổng hợp Hà Nội. Ông đã biên soạn một số tác phẩm nghiên cứu văn hoc và dịch thuật.
TPHCM có đường Hoàng Xuân Nhị ở quận Tân Bình.

Hoàng Minh Giám (1904 - 1995) người làng Đông Ngại (nay thuộc Hà Nội). Cụ thân sinh là Hoàng Tăng Bí, tham gia Đông kinh nghĩa thục, sau đỗ phó bảng nhưng không ra làm quan.
Hoàng Minh Giám tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm Đông Dương rồi làm giáo sư ở Huế, ở Phnom Pênh (Campuchia) - Sau ông từ chức, về dạy tư và làm phó hiệu trưởng trường tư thục Thăng Long ở Hà Nội.
Dưới chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa, ông được giao nhiều trọng trách trong Chính phủ và Quốc hội (Thư ký hội đồng Chính phủ, Thứ trưởng Bộ ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Văn hóa...). 
TPHCM có đường Hoàng Minh Giám ở quận Phú Nhuận.

Đào Duy Anh (1904 - 1988) nguyên quán Tả Thanh Oai (Hà Đông cũ), từ đời ông nội, chuyển cư vào Thanh Hoá. Có bằng Thành chung (1923), ông làm giáo học tại Đồng Hời (Quảng Bình). Từ 1926, ông thôi dạy học, cộng sự với báo Tiếng dân (của cụ Huỳnh Thúc Kháng, 1927 tham gia Đảng Tân Việt; 1929 bị Pháp bắt; 1930 được trả tự do. Từ đó ông dạy tư ở Huế. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm việc tại Chi hội Văn nghệ liên khu 4, rồi lên Việt Bắc phụ trách Ban văn sử địa thuộc Bộ Giáo dục. Năm 1953 dạy lớp dự bị Đại học ở Thanh Hóa - Năm 1954 ra Hà Nội giảng dạy ở Đại học sư phạm và Đại học tổng hợp.
Sự nghiệp trước tác của ông cũng rất đồ sộ. Ông đã làm các bộ Từ điển (Hán Việt, Pháp Việt, Từ điển Truyện Kiều) cùng nhiều công trình nghiên cứu sử học, văn học và các lĩnh vực khác.
Quận Phú Nhuận (TPHCM và quận Đống Đa (Hà Nội) có đường, phố Đào Duy Anh.

Ca Văn Thỉnh (1902 - 1987), người huyện Mỏ Cày (Bến Tre). Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm, ông dạy học một thời gian rồi làm đốc học Bến Tre, đồng thời nghiên cứu văn học, sử học. Nam Bộ kháng chiến, ông là ủy viên Uỷ ban kháng chiến, hành chính Nam Bộ. Năm 1946, tham gia phái đoàn Nam Bộ ra Trung ương, nhận nhiệm vụ quyền Bộ trưởng Bộ Giáo dục - năm 1952 trở về làm ủy viên tuyên huấn Trung ương cục miền Nam. Sau 1954, tập kết ra Bắc, từng làm công tác ngoại giao rồi giám đốc thư viện khoa học xã hội. Miền Nam hoàn toàn giải phóng (tháng 4/1975), ông tiếp tục làm Viện trưởng Viện khoa học xã hội (tại TP. HCM). Ông là thân sinh nhà thơ liệt sĩ Ca Lê Hiến (bút danh Lê Anh Xuân)
Ca Văn Thỉnh là tên một con đường ở quận Tân Bình (TP. HCM)

Hoàng Ngọc Phách (1896 - 1973), người huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh), ông là nhà giáo, là nhà văn, nhà nghiên cứu văn học. Sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng sư phạm Đông Dương, ông dạy học ở nhiều nơi, Cách mạng tháng Tám thành công, ông làm giám đốc học khu Bắc Ninh, rồi giám đốc giáo dục khu 12 (1945 đến 1951); giám đốc trường cao đẳng sư phạm trung ương. Lại ở trong ban tu thư của Bộ Giáo dục.
Nhiều tác phẩm của ông đã được xuất bản:  Tố Tâm (1925, Thời thế với văn chương (1941), Thơ văn Nguyễn Khuyến (hợp soạn 1957), Giai thoại văn học Việt Nam (1965).
Quận Tân Bình (TPHCM) và quận Đống Đa (Hà Nội) có đường phố Hoàng Ngọc Phách.

Đặng Thai Mai (1902 - 1984) quê: huyện Thanh Chương (Nghệ An), thân phụ là cụ Đặng Nguyên Cẩn, đỗ phó bảng, từng làm đốc học, nhưng do hoạt động yêu nước nên bị Pháp đầy ra Côn Đảo.
Đặng Thai Mai tốt nghiệp cao đẳng sư phạm năm 1928. Sau đó, ông dạy trường quốc học Huế. Hai lần, ông bị chính quyền thực dân cầm tù vì tham gia Đảng Tân Việt (một trong các tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Đông Dương) - ra tù, ông dạy học ở Hà Nội.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông được nhận nhiều chức vụ (Chủ tịch ủy ban kháng chiến tỉnh Thanh Hóa, Bộ trưởng Bộ Giáo dục...) lại là đại biểu Quốc hội, là Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật, Viện trưởng Viện văn học Việt Nam...
Quận Phú Nhuận (TPHCM) và quận Tây Hồ (Hà Nội) có đường, phố Đặng Thai Mai.

Nguyễn Văn Ngọc sinh năm 1890, mất nằm 1942. Nguyên quán: Hải Dương. Trên 30 năm (bằng hơn nửa cuộc đời ông) Nguyễn Văn Ngọc đứng trong giáo giới. Ông dạy học ở nhiều trường (tiểu hoc, cao đẳng tiểu học rồi trường Hậu bổ, trường sư phạm). Từng làm thanh tra các trường sơ học; phụ trách cục tu thư của nha hoc chính; Hội trưởng Hội ái hữu các nhà giáo. Năm 1934 được bổ nhậm đốc học tỉnh Hà Đông. Nguyễn Văn Ngọc còn biên soạn sách giáo khoa và sách nghiên cứu có giá trị. Ông rất quan tâm khai thác những vốn quý trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
Hà Nội và TPHCM đều có tên đường phố Nguyễn Văn Ngọc.

Cao Xuân Huy (1900 - 1983), người Diễn Châu, Nghệ An. Cao Xuân Huy xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Ông nội (Cao Xuân Dục) đỗ cử nhân, làm đến thượng thư bộ Học, tổng tài quốc sử quán. Cha (Cao Xuân Tiếu) làm giáo thụ Diễn Châu, sau thi đậu phó bảng - gia đình ông có một thư viện lớn vào bậc nhất nước. Cao Xuân Huy tốt nghiệp trường cao đẳng sư phạm năm 1925 - Ông đã dạy học ở Sài Gòn, Huế đồng thời nghiên cữu triết học. Sau Cách mạng tháng Tám 1945 ông làm hiệu trưởng trường trung học Nguyên Xuân Ôn (Nghệ An). Ông còn giảng dạy tại nhiều trường đại học - làm giáo sư chính lớp Hán Nôm: Lại dạy các lớp chuyên tu sau đai học. Giáo sư Cao Xuân Huy đã làm công việc cao quý của người thầy giáo suốt hơn nửa thế kỷ. Nhiều thế hệ hoc trò đã có hạnh phúc được thụ giáo người thầy uyên bác, tân tụy: giáo sư Cao Xuân Huy.
Ở TPHCM có đường Cao Xuân Huy (tên người cháu) và đường Cao Xuân Dục (tên người ông).

Trường hợp hơi hiếm với giáo giới ta là: một gia đình ba anh em ruột cùng có tên trong sách giới thiệu "Đường phố thành phố Hồ Chí Minh" (Nhà xuất bản Văn hóa thông tin - tháng 7/2001). Ba anh em Dương Bá Trạc, Dương Quảng Hàm, Dương Tụ Quán, người làng Phú Thị, tỉnh Hưng Yên. Thân phụ (Dương Trọng Phổ) là một cụ đồ, có những hoạt động yêu nước nên năm 1909, cụ bị Pháp đầy ra Côn Đảo. Được tha về, cụ tiếp tục dạy học.

Dương Bá Trạc sinh năm 1884, nổi tiếng hay chữ, mới 16 tuổi đã đỗ cử nhân. Không muốn làm quan mà chỉ lo sao nước nhà thoát khỏi vòng nô lệ. Năm 1906 (22 tuổi) Dương Bá Trạc đã cùng Phan Chu Trinh tìm cách lên Yên Thế, gặp Hoàng Hoa Thám bàn kế hoạch đánh Pháp. Tiếp đó, Dương Bá Trạc tham gia Đông Kinh nghĩa thục, nhận các việc dạy học, diễn thuyết cổ động tân học, hô hào duy tân, tự cường. Lại được cử vào ban tu thư của nhà trường. Năm 1908, Dương Bá Trạc bị Pháp bắt, kết án 15 năm biệt xứ, đầy đi Côn Đảo. Được mấy năm, chúng đưa về an trí tại Long Xuyên. Tới 1917 mới tha, cho ra Bắc. Toàn quyền Pháp nhiều lần mua chuộc, bổ ông làm tri huyện nhưng ông vẫn khảng khái từ chối. Tháng 10/1943, ông bị quân Nhật ở Đông Dương đưa sang Singapore - năm sau (1944), ông bệnh nặng, mất ở đó.
Dương Bá Trạc được đặt tên cho một con đường ở quận 8 TPHCM.

Dương Quảng Hàm là một nhà giáo liệt sĩ. Ông đã hy sinh tại Hà Nội trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến (tháng 12/1946). Sinh năm 1898, đến năm 1920, Dương Quảng Hàm đỗ đầu trong kỳ thi tốt nghiệp trường cao đẳng sư phạm. Từ đó, liền 25 năm, ông là giáo sư trung học. Cách mạng tháng Tám thành công, giáo sư được cử làm thanh tra trung học vụ rồi hiệu trưởng trường Chu Văn An (tức trường Bưởi cũ). Dương Quảng Hàm là người thầy mẫu mực, được tôn kính về nhân cách, về học vấn. Ông còn là nhà tu thư, đã viết nhiều sách giáo khoa (từ bậc tiểu học đến bậc trung học - có sách bằng tiếng Pháp). Chỉ riêng cuốn "Việt Nam văn học sử yếu" đã là một công trình làmm cho tên tuổi Dương Quảng Hàm được cả giáo giới và văn giới ngưỡng mộ từ hơn nửa thế kỷ qua. Cuốn "Việt Nam văn học sử yếu" ra đời năm 1941, đến nay đã được tái bản 14 lần. Trong những năm vừa qua, đã có nhiều buổi lễ kỷ niệm và hội thảo khoa học về giáo sư Dương Quảng Hàm nhằm ghi nhận công lao đào tạo và trước tác của giáo sư.
TPHCM và thủ đô Hà Nội đều có đường phố Dương Quảng Hàm.

Dương Tụ Quán (1901 - 1969) là người em út. Thuở nhỏ học chữ Nho sau chuyển qua Tây học Từ 1921, làm thầy giáo dạy nhiều trường (ở Thái Bình, Hải Phòng, Hà Nội, Sơn Tây).
Dương Tụ Quán cũng vừa dạy học vừa soạn sách. Có cuốn sách giáo khoa được dùng trong các trường tiểu học từ 1926 đến 1945. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cuốn "80 bài thơ ca yêu nước" của ông soạn, đã được Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cho xuất bản để các trường kịp sử dụng ngay năm 1946.
Năm 1929, ông thôi dạy học, về lập nhà in, xuất bản sách và làm báo. Ông đã chủ trương các tờ "Văn học tạp chí", "Đông tây báo" (tờ này bị thực dân Pháp cấm năm 1935), "Ngày mới"... Ông cũng là người sáng lập tạp chí Tri Tân. Học trò ông là nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và các bạn của ông như Hoàng Thúc Trâm, Nguyễn Văn Tố, Trần Văn Giáp... đều là những cây bút thường xuyên cộng tác với tạp chí Tri Tân.
Ở huyện Bình Chánh - TPHCM, có một con đường mang tên Dương Tụ Quán.

Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822, mất năm 1888. Là nhà thơ lớn của dân tộc, là một trong những nhân vật tiêu biểu cho tinh thần bất khuất của miền Nam tại thời kỳ đầu thực dân Pháp xâm lược, nhưng Nguyễn Đình Chiểu cũng là một nhà giáo (nhân dân thường gọi là Cụ Đổ Chiểu).
Nguyễn Đình Chiểu người vùng Gia Định xưa (nay thuộc TPHCM); 21 tuổi đỗ tú tài, đến 26 tuổi bi mù cả hai mắt. Từ đó, Nguyễn Đình Chiểu làm nghề dạy học. Bọn Pháp thấy Nguyễn Đình Chiểu có uy tín lớn trong dân chúng nên nhiều lần tìm cách mua chuộc nhưng trước sau, Nguyễn Đình Chiểu không cộng tác với quân cướp nước. Ông ở lại nông thôn, tiếp tục dạy hoc và sáng tác thơ văn, nêu cao đạo lý chính nghĩa, nêu cao lòng yêu nước, căm thù giặc. Hầu như ai cũng nhớ hai câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu.
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.”

Võ Trường Toản người huyện Bình Dương cũ (nay thuộc TPHCM) ông học rộng đức cao, không cầu danh, chỉ ở ẩn dạy học. Võ Trường Toản là người thầy đã có công đào tạo nên một loạt danh sĩ đất Gia Định xưa. Nguyễn ánh (sau là vua Gia Long) thường triệu ông đến giảng sách. ý muốn trọng dụng nhưng ông nhất định không nhận quan chức. Ông mất năm 1792 được ban mỹ hiệu: "Gia Định xử sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh". Võ Trường Toản rất xứng đáng với danh xưng "Bách niên sư biểu" mà học giới Gia Định thời ấy đã dành cho ông và tại TPHCM Võ Trường Toản được đặt tên cho hai con đường (ở quận 5 và quận Bình Thạnh TP. HCM)

Chu Văn An người huyện Thanh Trì - Hà Nội. Nổi tiếng chính trực, học vấn uyên thâm. Ông đậu Thái học sinh và ở nhà dạy học. Gần xa theo học rất đông. Những người nổi danh đương thời như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát... đều từng thụ giáo ông. Chu Văn An còn làm tư nghiệp Quốc Tử Giám. Đời Trần Dụ Tông, gian thần làm nhiều điều vô đạo, Chu Văn An dâng sớ xin chém 7 tên. Vua không nghe. Ông lui về ở ẩn. Sau khi mất (1370) Chu Văn An được thờ tại Văn Miếu, ngang hàng với các bậc hiền triết. Hà Nôi ngày nay có phố mang tên Chu Văn An. Ở quận Bình Thạnh có đường mang tên ông.

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, mất năm 1585, quê làng Cổ Am (nay thuộc Hải Phòng). Học giỏi, đỗ đầu 3 khoa (thi Hương, thi Hội, thi Đình). Là Trạng Nguyên, ông cũng chỉ làm quan 8 năm rồi về dạy học ở quê hương (bên dòng sông Tuyết Giang), được tôn xưng là "Tuyết Giang phu tử". Ông la thầy học của nhiều danh thần, danh sĩ: Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan (trạng Bùng), Nguyễn Dữ (tác giả "Truyền kỳ mạn lục")...
Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại nhiều thơ văn (Hán, Nôm) ca ngợi đạo đức của con người chân chính và tố cáo sự thối nát của xã hội phong kiến đương thời. Thủ đô Hà Nôi có phố Nguyễn Bỉnh Khiêm. TPHCM có tới 3 con đường mang tên ông (ở quận I, quận Gò Vấp, quận Thủ Đức).

Giác ngộ 10 năm kungfu Nam Huỳnh Đạo


Tập luyện mỗi ngày, ít thì 6 giờ, nhiều thì 8 tiếng, chia làm 3 pha: sáng - trưa – chiều tối. Không phải động tác quá khó hay nhiều chiêu thức, chỉ một tay quyền, một động tác tập nhiều lần…Cứ thế, cứ thế, ngày này qua ngày nọ, tháng này qua tháng nọ… rồi thời gian mãi trôi đến khi nhận ra mình đã lớn.
Sau nhiều năm lăn lộn trong với cuộc sống bon chen nghiệt ngã, mình nhận ra rằng hồi còn được luyện tập cùng các huynh đệ dưới sự chỉ bảo tận tình của Sư Phụ là quãng thời gian đẹp nhất của đời mình cho tới thời điểm này. Vì một trong những điều mà đời người không được đánh mất đó là sự thảnh thơi - đúng vậy, thời bấy giờ chỉ tập luyện cực khổ một chút, đói khát một chút... nhưng lòng thật thảnh thơi, thanh thản, vô tư...
Những bài quyền, những bài học tâm pháp, những đường nét thân thủ như lần lượt hiện ra trong không gian tỉnh mịch khi chỉ còn lại mình độc thoại với tâm linh, dù rằng có ngắc quãng, rời rạc.

 
Sư Phụ từng dạy: 
Học nguyên tắc rồi giải trừ nguyên tắc, nghĩa là qua sông rồi thì nên để lại thuyền mới đi tiếp được, nếu cứ câu nệ vào phương pháp tức là quá quan tâm đến hình thức mà không hướng đến nội dung thì Tâm pháp bị vướng bận, năng lực bị giam hãm và không được giải phóng thì cho dù có tập luyện quyền thuật lâu ngày cũng không có kết quả gì.
Như vậy người mới học quyền thuật rất cần các hình thái quyền pháp căn bản, đến khi tinh luyện rồi thì thiên biến vạn hóa, từ chỗ có chiêu số đi đến chỗ không có chiêu số nghĩa là Vô ảnh quyền, vô ảnh cước, mọi cử động bất kỳ của thân thể cũng có thể trở thành chiêu thức phòng thủ, tấn công hay phản công đối phương hữu hiệu.
Các thế đánh đều xuất phát từ trung tuyến nên rút ngắn khoảng cách và thời gian. Tay quyền không theo một trình tự nhất định nào mà tùy theo khả năng ứng biến theo tình thế của người luyện tập và trong khi chiến đấu ngoài đời thật sự. Có thể nói cách khác, không phụ thuộc về hình cũng không dạy các võ sinh phải đỡ đòn tấn công của đối phương khi đánh ra thế này hay thế kia mà cần phát huy khả năng ứng biến linh động sáng tạo của các môn sinh khi ứng dụng trực chiến gọi là Tâm ứng thủ hay Tâm ý quyền.

Một số hình quyền:

Ngũ hình quyền:
Long : Thổ        - Tỳ      - thần
Hổ:       Kim      – Phế   - lực (xương cốt)
Báo:     Mộc     - Can   - kình (gân)
Xà:       Thuỷ     - Thận - khí
Hạc:     Hoả      - Tâm   - tinh

Dĩ công vi thủ - dĩ thủ vi tiêu
Lấy công để thủ, lấy thủ để hoà giải

Nói về ân dương trong võ học
Âm - Dương, Cương - Nhu, Hư - Thực, Động - Tĩnh
Nhu quyền: Lấy lực ly tâm (vòng tròn) để hoá giải lực hướng tâm (lực thẳng)
Triệt đầu quyền: chặn ngay lực đối phương từ gốc
Tiếp vĩ quyền: đợi lực đối phương ra hết rồi mới ra chiêu tiếp lực đối phương
 Tay thủ: (Kiều thủ)
  1. Khuyên thủ (Xoay tròn)
  2. Than thủ (tản ra)
  3. Bàng thủ (Tạt ra)
  4. Cổn thủ (ém)
  5. Tán thủ
  6. Phách thủ
  7. Phục thủ (nằm lên)
  8. Liêu thủ (nâng lên)
  9. Xuyên thủ (xiên luồn )
  10. Khấu thủ (giằng chặt)
  11. Phao thủ (quăng ném)
  12. Khiêu thủ (dẫn dụ)
  13. ....
 Tay quyền có:
  1. Tam tinh chuỳ (Đấm tam tinh) chia là 3 lực trong một thế đánh
  2. Nhật tự xung quyền
  3. Quải quyền
  4. Thôi sơn quyền
  5. Khắc thủ quyền
  6. Địa lôi quyền
  7. Pháo quyền
  8. Cương quyền
  9. Toàn quyền
  10. Xà quyền
  11. Báo quyền
  12. Long quyền
  13. Hổ quyền
  14. Hạc quyền
  15. Hầu quyền
  16. Trúc diệp chưởng
  17. Song long chưởng
  18. Lôi oanh chưởng
  19. Âm dương pháp chưởng
  20. Thiên vương pháp chưởng
  21.  ....